Nhận thức công tác kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng nên trong thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tổ chức quán triệt đầy đủ, kịp thời, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ và các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng đến tất cả các chi, đảng bộ cơ sở; chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ, hằng năm; nội dung bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, nhất là yêu cầu đối với công tác xây dựng Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát các lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, dễ phát sinh tiêu cực; coi trọng kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; chú ý kiểm tra, giám sát trách nhiệm của tổ chức đảng và người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; đạt được một số kết quả như sau:
1. Về kiểm tra, cấp ủy các cấp và chi bộ cơ sở đã tiến hành: Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng đối với 7.476 lượt tổ chức đảng, 15.955 lượt đảng viên. Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 04 cấp ủy cấp huyện và 01 đảng ủy cơ sở kiểm tra 06 tổ chức đảng và 18 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; qua kiểm tra đã thi hành kỷ luật 09 đảng viên (05 khiển trách, 04 cảnh cáo). Giải quyết tố cáo đối với 06 lượt tổ chức và 35 đảng viên; qua đó, đã thi hành kỷ luật khiển trách 03, cảnh cáo 01. Giải quyết khiếu nại 28 trường hợp (kết quả: thay đổi hình thức kỷ luật 10 trường hợp). Đã thi hành kỷ luật 679 đảng viên với các hình thức: khiển trách 463, cảnh cáo 153, cách chức 44, khai trừ 19 trường hợp; có 15 trường hợp xử lý hình sự, 110 trường hợp xử lý hành chín; trong đó: Tỉnh ủy thi hành kỷ luật 09 đồng chí (01 Tỉnh ủy viên, 02 nguyên Tỉnh ủy viên, 04 cấp ủy viên cấp huyện, 02 cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý); riêng cấp ủy cấp huyện đã thi hành kỷ luật 11 tổ chức đảng, với các hình thức: khiển trách 08, cảnh cáo: 03; đảng ủy cơ sở thi hành kỷ luật 01 tổ chức đảng bằng hình thức khiển trách.
Ngoài ra, các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp ủy trong tỉnh đã tiến hành kiểm tra đối với 1.025 lượt tổ chức đảng và 28 lượt đảng viên theo nội dung, lĩnh vực của đơn vị mình phụ trách, theo dõi.
* Ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh đã: Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 51 tổ chức đảng và 555 đảng viên (trong đó, cấp tỉnh kiểm tra 05 tổ chức đảng và 42 đảng viên; cấp huyện và cơ sở kiểm tra 46 tổ chức đảng và 513 đảng viên); qua kiểm tra, kết luận có 30 tổ chức đảng và 410 đảng viên có vi phạm; trong đó, vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật 15 tổ chức đảng và 261 đảng viên. Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 2.320 lượt tổ chức đảng trực thuộc tỉnh (trong đó, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy kiểm tra 50, ủy ban kiểm tra cấp huyện và tương đương kiểm tra 735, ủy ban kiểm tra cơ sở kiểm tra 1.535). Kiểm tra việc thi hành kỷ luật đảng đối với 274 lượt tổ chức đảng trực thuộc tỉnh (trong đó, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy kiểm tra 43, ủy ban kiểm tra cấp huyện kiểm tra 196, ủy ban kiểm tra cấp cơ sở kiểm tra 35). Kiểm tra tài chính đảng đối với 211 lượt tổ chức đảng; qua kiểm tra đã đề nghị xuất toán, thu hồi trên 1,007 tỷ đồng. Kiểm tra việc thu nộp, quản lý và sử dụng đảng phí đối với 3.070 lượt tổ chức đảng; qua kiểm tra đã đề nghị xuất toán, thu hồi trên 236 triệu đồng.
2. Về giám sát, cấp ủy các cấp và chi bộ cơ sở đã tiến hành: Đã tiến hành giám sát chuyên đề đối với 3.440 lượt tổ chức đảng và 11.085 đảng viên. Qua giám sát, có 02 Ban thường vụ cấp huyện đã phát hiện và chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 01 tổ chức đảng và 08 đảng viên. Kết quả: có 06/08 đảng viên có vi phạm, đã thi hành kỷ luật đối với 06 đảng viên (khiển trách 03, cảnh cáo 03). Ngoài ra, các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp ủy đã tiến hành giám sát đối với 369 lượt tổ chức đảng và 319 đảng viên.
* Ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh đã: Giám sát tổ đối với 1.532 lượt tổ chức đảng và 2.394 lượt đảng viên (trong đó, cấp tỉnh 65 lượt tổ chức đảng và 65 đảng viên, cấp huyện giám sát 330 lượt tổ chức đảng và 448 đảng viên, cơ sở giám sát 1.137 lượt tổ chức đảng và 1.881 đảng viên); qua giám sát, có 01 Ủy ban kiểm tra cấp huyện, 01 ủy ban kiểm tra đảng ủy trực thuộc huyện đã phát hiện và chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 01 tổ chức đảng và 04 đảng viên (kết quả, đã đề nghị tổ chức đảng rút kinh nghiệm; 04 đảng viên có sai phạm, đã thi hành kỷ luật: khai trừ 02, cảnh cáo 02). Thi hành kỷ luật đối với 350 đảng viên (các hình thức: khiển trách 171, cảnh cáo 99, cách chức 10, khai trừ 70; có 40 trường hợp xử lý hình sự, 60 trường hợp xử lý hành chính). Giải quyết tố cáo đối với 232 đảng viên và 13 tổ chức đảng (trong đó, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy giải quyết 17 đảng viên và 06 lượt tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp huyện giải quyết 160 đảng viên và 07 tổ chức đảng, cơ sở giải quyết 55 đảng viên); qua giải quyết, kết luận: Tố đúng và đúng một phần có 121 đảng viên và 03 tổ chức đảng; trong đó tố đúng có vi phạm là 59 đảng viên, vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật 32 đảng viên. Đã giải quyết khiếu nại kỷ luật xong 20/20 trường hợp đảng viên khiếu nại kỷ luật đảng (trong đó, cấp tỉnh giải quyết 17, cấp huyện giải quyết 04 trường hợp); qua giải quyết, kết luận: Giữ nguyên hình thức kỷ luật 13 trường hợp, thay đổi hình thức 07 trường hợp, gồm: giảm 04, xoá 03.
* Từ những kết quả đạt được nêu trên, cho thấy: các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu và đảng viên nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh luôn chú trọng tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương; đã tiến hành ban hành đầy đủ các văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa, hàng năm đảm bảo có trọng tâm, trọng điểm chú ý những lĩnh vực, địa bàn dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng; công tác giám sát trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị được chú trọng hơn; công tác tự kiểm tra được quan tâm thường xuyên, ngày càng tốt hơn. Ủy ban kiểm tra các cấp đã thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy cấp mình, đồng thời đã tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; đầu tư khảo sát, nắm bắt thông tin và tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết cơ bản kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo; việc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên cơ bản bảo đảm phương hướng, phương châm, nguyên tắc, quy trình, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của cấp trên.
Tuy nhiên, qua đó vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót như sau:
- Một số cấp ủy trực thuộc và cơ sở chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra, giám sát; chưa làm tốt công tác thẩm tra, xác minh dẫn đến kết luận có việc chưa chính xác, có trường hợp áp dụng hình thức kỷ luật chưa phù hợp.
- Công tác nắm bắt thông tin, phát hiện dấu hiệu vi phạm của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đối với tổ chức đảng và đảng viên còn hạn chế; thực hiện chưa đảm bảo quy trình, quy định trong kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, thực hiện chưa toàn diện theo Điều 32 Điều lệ Đảng.
- Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kết luận một số vụ việc còn chậm, trong đó có cả cấp tỉnh và cấp huyện; việc theo dõi đôn đốc tình hình đơn thư chuyển đến các cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền chưa được chú ý đúng mức, có đơn thư còn chuyển lòng vòng, đơn vị tiếp nhận xử lý, xem xét, giải quyết đơn, thư chưa kịp thời.
- Công tác theo dõi kết quả khắc phục sau kiểm tra, sau giám sát của một số nơi chưa được quan tâm chú ý đúng mức.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là: Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn nhận thức chưa đầy đủ về công tác kiểm tra, giám sát; chưa thể hiện quyết tâm cao; chưa bám sát kế hoạch kiểm tra đề ra. Phương pháp nghiên cứu, khảo sát, nắm bắt thông tin, phát hiện dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, thiếu ý chí rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc; cán bộ lãnh đạo thiếu trách nhiệm, buông lỏng công tác lãnh đạo, quản lý. Mặt khác, trong những năm gần đây, do tình hình dịch, bệnh Covid-19, đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát cũng như công tác giải quyết đơn, thư tố cáo, khiếu nại, phản ảnh,…
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong toàn cơ quan hoàn thành tốt các chỉ tiêu theo Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 07/12/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khóa XIV) và Nghị quyết số 63/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2022.
- Chủ động ban hành kế hoạch năm về công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt hơn; nâng cao hơn nữa chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát; quan tâm nhiều hơn công tác nắm bắt thông tin, khảo sát tình hình và tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên; xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
- Tiếp tục nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng; thực hiện tốt Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị.
- Tăng cường chỉ đạo các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra trực thuộc trong việc triển khai thực hiện toàn diện nhiệm vụ theo Điều lệ Đảng; trong đó đặc biệt quan tâm đối với những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, dự án, hoạt động của các dự án đầu tư có xây dựng, các hoạt động tài chính, công tác cán bộ, kê khai tài sản thu nhập; chú trọng kiểm tra các đối tượng là cấp uỷ viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp; chú ý làm tốt công tác giám sát việc thực hiện các kết luận, thông báo sau kiểm tra.
- Tăng cường việc phối hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng; tiếp tục phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng cũng như vai trò giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
- Phối hợp cùng các ban xây dựng Đảng và Văn phòng cấp ủy tăng cường hơn nữa trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ được giao; triển khai xây dựng chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện chặt chẽ, đầy đủ các khâu, các bước cần thiết khi thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát.
- Tổ chức bồi dưỡng công tác kiểm tra, giám sát cho cấp ủy, cho lãnh đạo ủy ban kiểm tra các cấp trực thuộc tỉnh và tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát các cấp; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra của Đảng tinh thông nghiệp vụ, am hiểu nhiều lĩnh vực, tâm huyết, có ý thức rèn luyện, thật sự liêm chính, không để suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”./.