Tính chất kỷ luật của Đảng bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Đảng, nên “Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Tính nghiêm túc và tự giác của kỷ luật đảng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ, bắt buộc và tự giác. Nghiêm túc phải trên cơ sở tự giác, tự giác càng cao thì kỷ luật càng nghiêm túc. Sự thống nhất và kết hợp giữa nghiêm túc và tự giác là điều kiện bảo đảm cho kỷ luật đảng thực sự là kỷ luật sắt.
Năm 2015, các cấp ủy và tổ chức đảng đã thi hành kỷ luật 152 đảng viên, giảm so với năm 2014 là 41 đảng viên. Trong đó số đảng viên khiếu nại kỷ luật đảng năm 2015 là 08 trường hợp, chiếm 5,26% giảm so với năm 2014 có 12 trường hợp khiếu nại, chiếm 6,22% (việc khiếu nại tập trung vào nội dung hình thức kỷ luật và nguyên tắc thủ tục quy trình). Trong năm 2015, qua giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng chỉ có 01 trường hợp thay đổi hình thức kỷ luật và số cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật do vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm là 32 đồng chí, chiếm 21,05% giảm so với năm 2014 có 47 đồng chí, chiếm 24.35%.
Qua đó, cho thấy trong năm 2015, các cấp ủy, tổ chức đảng đã thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và thẩm quyền theo Quy định của Trung ương nên số cán bộ, đảng viên vi phạm đến mức phải bị thi hành kỷ luật và đã khiếu nại hình thức kỷ luật có chiều hướng giảm so với năm 2014; đạt được kết quả trên là do:
1- Nhận thức của cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
2- Thể hiện tính gương mẫu, tự giác của cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành và thực hiện nghiêm túc Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm;
3- Tinh thần tự giác, tính tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng viên ngày càng được nâng cao;
4- Bộ Chính trị (khóa XI) và Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đã ban hành các văn bản Quy định, Hướng dẫn như: Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30/3/2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Hướng dẫn số 09-HD/UBKTTW, ngày 06/6/2013 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy định 181-QĐ/TW; Quy định số 263-QĐ/TW, ngày 08/10/2014 của Bộ Chính trị về xử lý tổ chức đảng vi phạm và Hướng dẫn số 17-HD/UBKTTW, ngày 16/3/2015 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng về thực hiện một số điều của Quy định về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm; đã tạo nhiều thuận lợi cho các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc xem xét, áp dụng hình thức kỷ luật (với những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng mức kỷ luật) phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Trong tình hình hiện nay, Đảng ta càng cần có kỷ luật nghiêm minh. Do đó, thi hành kỷ luật trong Đảng là công việc quan trọng và cần thiết, nhằm giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, giáo dục tổ chức đảng và đảng viên. Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh và khẳng định rằng, Đảng ta không thể nào tồn tại, lãnh đạo nhân dân giành chính quyền và giữ vững chính quyền nếu không có kỷ luật nghiêm minh. Cho nên từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề kỷ luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đả khẳng định: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”. Chính nhờ có kỷ luật nghiêm minh mà hơn 85 năm qua, Đảng ta đã đứng vững trước mọi thử thách hiểm nghèo của cách mạng và lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vẻ vang qua các thời kỳ./-