Kết quả qua 3 năm triển khai thực hiện Quy định 263, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã xử lý kỷ luật 11 tổ chức đảng vi phạm, với các hình thức: khiển trách 08, cảnh cáo 03. Trong đó, ban thường vụ huyện uỷ và tương đương xử lý 08 trường hợp; đảng uỷ cơ sở thi hành 03 trường hợp. Nội dung vi phạm: Về ban hành, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; về công tác tổ chức, cán bộ được quy định tại Điều 8, Điều 9, Điều 10 và Điều 22 của Quy định số 263-QĐ/TW; trong đó có 06 trường hợp vi phạm một điều, 05 trường hợp vi phạm cùng lúc hai điều.
Trong quá trình áp dụng các điều khoản của Quy định số 263-QĐ/TW để xử lý sai phạm, các cấp ủy luôn kết hợp kết quả tự phê bình và phê bình với kết quả thẩm tra, xác minh để bảo đảm kết luận khách quan, chính xác, không bỏ sót hành vi vi phạm; đồng thời, quan tâm xem xét, làm rõ tính chất, mức độ, tác hại, động cơ, nguyên nhân của các hành vi vi phạm và thái độ tự giác nhận khuyết điểm, tinh thần quyết tâm sửa chữa vi phạm, khắc phục hậu quả do tổ chức gây ra, để từ đó áp dụng hình thức kỷ luật cho phù hợp, tránh oan, sai, hạn chế tình trạng khiếu nại kỷ luật. Hầu hết các tổ chức đảng vi phạm đều nhận thức được mức độ vi phạm, chấp hành nghiêm quyết định kỷ luật, đến nay chưa có trường hợp khiếu nại kỷ luật đối với tổ chức đảng.
Đạt được những kết quả trên là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện Quy định 263 được các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai nghiêm túc; qua đó, giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm bắt các nội dung cơ bản của Quy định số 263, góp phần nâng cao ý thức chấp hành, hạn chế vi phạm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo. Phần lớn tổ chức cơ sở đảng phát huy khá tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, duy trì nền nếp sinh hoạt và lãnh đạo thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở; bên cạnh đó, các cấp ủy đã từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt, cải tiến, đổi mới phương pháp quán triệt, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của Đảng; tăng cường kiểm tra, xử lý những trường hợp vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, góp phần quan trọng thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị; từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Hầu hết các cấp ủy đều bám sát quy trình, thực hiện đúng phương hướng, phương châm nguyên tắc, thủ tục và đúng thẩm quyền trong thi hành kỷ luật đảng, nên không có trường hợp tổ chức đảng bị kỷ luật khiếu nại lên cấp trên.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như công tác kiểm tra, giám sát tuy được tăng cường chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhưng ở một số nơi chưa tập trung vào trọng tâm, trọng điểm; một số ủy ban kiểm tra cấp ủy chưa chú ý đúng mức đến việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; công tác tự kiểm tra, giám sát tính chiến đấu trong sinh hoạt ở một số tổ chức đảng còn hạn chế, còn nể nang, né tránh nên chưa kịp thời phát hiện để ngăn chặn đảng viên và tổ chức đảng vi phạm kỷ luật Đảng. Nguyên nhân chủ yếu là một số văn bản ban hành có liên quan công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng còn chậm. Cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở kiêm nhiệm nhiều, thường thay đổi, năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế nên có ảnh hưởng nhất định đến công tác tham mưu cho cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
Để thực hiện tốt hơn Quy định 263 trong thời gian đến, cần tập trung một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới phương pháp học tập chính trị, tư tưởng gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI và khoá XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ chính trị (khoá XII) để nâng cao chất lượng, phẩm chất chính trị, tinh thần phấn đấu rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên; thường xuyên coi trọng tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, ý thức tiêu chuẩn người đứng đầu địa phương, đơn vị để đủ năng lực, có uy tín trong điều hành cấp ủy, tổ chức đảng hoạt động.
Hai là, tiếp tục tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện các quy định của Đảng liên quan đến việc thi hành kỷ luật trong Đảng nhằm nâng cao nhận thức cho tổ chức đảng và đảng viên, trước hết là cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về ý nghĩa, mục đích, tác dụng của việc chấp hành kỷ luật đảng để chủ động, tự giác chấp hành. Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý phải chấp hành nghiêm kỷ luật đảng, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình; phát huy tính chiến đấu, tính tự giác của tổ chức đảng, đảng viên, đề cao tinh thần đấu tranh chống tiêu cực của đảng viên trong sinh hoạt nội bộ Đảng. Đảm bảo phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Ba là, các cấp ủy tăng cường chỉ đạo hoạt động của ủy ban kiểm tra, thường xuyên nắm tình hình, xác định nội dung kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm, chú ý tập trung kiểm tra, giám sát những tổ chức đảng yếu kém, có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, những nơi có vấn đề nổi cộm nhằm tạo chuyển biến trong ý thức phấn đấu vươn lên; chủ động kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; tăng cường tiếp, đối thoại với công dân, giải quyết tốt, kịp thời đơn, thư khiếu nại, tố cáo tổ chức đảng.
Cuối cùng, phải quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp, chú trọng việc nâng cao chất lượng và chăm lo công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm tra nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay.